Thứ Ba, 27 tháng 7, 2010

Thế nào được gọi là mãn kinh?

0 nhận xét
Chu kỳ sinh sản của phụ nữ bắt đầu từ tuổi dậy thì và thường tiếp tục một cách điều đặn mà không gián đoạn từ lần thấy kinh đầu tiên cho đến thời kỳ tiền mãn kinh. Những mối quan hệ hormon qua lại trước thời kỳ tiền mãn kinh rất phức tạp. Nội dung này sẽ được cập nhật trong phần nội tiết học.

[Image]  
Estrogen giảm dần theo độ tuổi. 
Chu kỳ hàng tháng được bắt đầu với sự sản xuất hormone phóng thích (Gn-RH) Gonadotropin ở hạ đồi, làm tuyến yên phân tiết kích nang tố (FSH). Nồng độ FSH cao trong huyết thanh khởi phát sự trưởng thành nang noãn trong buồng trứng, một quá trình xảy ra mất khoảng 14 ngày (giai đoạn nang noãn)

Khi nang noãn trưởng thành, buồng trứng căng lên và tiết estrdiol, chất này có ba chức năng: kích thích sự tăng trưởng nội mạc tử cung, ức chế sự phân tiết FSH và tăng mạnh sản xuất hormone tạo hoàng thể. Thể này tiết ra progesterone (và một số estrogen), những chất này sau đó sẽ giúp nội mạc dày lên và có nhiều mạch máu. Nếu không có hiện tượng thụ tinh, giai đoạn hoàng thể kéo dài khoảng 14 ngày, trong thời gian đó hoàn thể thoái hoá dần. Hệ quả là nồng độ progesterol giảm xuống làm cho nội mạc tử cung teo đi, sau đó bong ra tạo thành kinh nguyệt vào khoảng ngày 28 của chu kỳ. Khi đó nồng độ thấp của progesterone và estrogen trong huyết thanh sẽ khởi phát sự phân tiết Gn-RH trở lại để bắt đầu chu kỳ kế tiếp

Tế bào nang noãn cũng có khả năng sản xuất các steroid androgen như androstenedione và testosterone. Những chất này sau đó có thể biến đổi thành estrone và estradiol trong nang noãn hoặc trong mô mỡ ngoài buồng trứng. Nồng độ androgen ở phụ nữ thưởng không đủ gây ra các đặc điểm nam hoá.

Ở một tuổi có thể thay đổi tuỳ từng người phụ nữ, thường là khoảng 45 tuổi, chuỗi diễn biến được điều hoà một cách phức tạp này bắt đầu chệch choạt. Đó là lúc bắt đầu chuyển tiếp sau mãn kinh và chu mãn kinh.

Không rõ nguyên nhân nào gây nên những thay đổi tùy từng người phụ nữ, thường là khoảng 45 tuổi, chuổi diển biến được điều hoà một cách phức tạp này bắt đầu chệch choạt. Đó là lúc khởi đầu chuyển tiếp sang mãn kinh và chu mãn kinh.

Không rõ nguyên nhân nào gây nên thay đổi, nhưng một số nang noãn vì lý do nào đó trở nên trơ dần với tác dụng của FSH, có lẽ 10 năm trước khi mãn kinh.Vì tính kém đáp ứng này buồng trứng tiết ít estrogen hơn, làm giảm hồi tác âm trên tuyến yên và hệ quả là tăng nồng độ FSH. Thường thì buồng trứng trở nên nhỏ hơn, ít nang noãn hơn, kinh nguyệt ít đều hơn rồi ngưng hẳn, và nồng độ estrogen suy giảm.

Sự sản xuất Androstenedione của buồng trứng cũng giảm sau mãn kinh, và điều này được cho là một yếu tố của trầm cảm và giảm ham muốn vào thời điểm này.

Mãn kinh được định nghĩa là thời gian chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng, tức là lần cuối cùng ra huyết âm đạo do các hormone buồng trứng gây ra, và tuồi trung bình của mãn kinh là 51 tuổi. Trước thời điễm này 5 năm, kinh nguyệt thừơng không đều, nên mãn kinh chỉ hồi cứu, sau 12 tháng “vô kinh” hoàn toàn không. thấy kinh. Mãn kinh cũng có thể gọi là “tắt dục”. Trong thời kỳ chu mãn kinh kéo dài đến vài năm sau mãn kinh, tất cả thời kỳ sau mãn kinh gọi là hậu mãn kinh.

Măc dù tuổi mãn kinh nói trên là phổ biến, nhưng có sự biến thiên đáng kể. Mãn kinh có xu hướng xảy ra ở tuổi cao hơn ở các nước phương Tây, có lẽ là do ảnh hưởng của chế độ ăn uống và lối sống. Ngay trong một nước cũng có yếu tố di truyền mạnh quyết định tuổi mãn kinh; Điều này được chứng minh khi nghiên cứu gia đình và so sánh số liệu của các cặp sinh đôi.

Ngoài ra nên chú ý rằng một số phụ nữ mãn kinh sớm, tức là xảy ra ở một tuổi khá trẻ. Điều này có thể xảy ra một cách tự nhiên, vì lý do duy truyền hoặc không rõ nguyên nhân, hoặc là hậu quả của cắt bỏ buồng trứng. Một số thủ thuật cắt bỏ tử cung hoặc cắt bỏ buồng trứng hai bên có thể được thưc hiện có cân nhắc vì những lý do lâm sàng như cắt bỏ khối u buồng trứng. Trong mọi trường hợp tình trạng hormone cũng giống như phụ nữ mãn kinh tự nhiên ở bất kỳ tuổi nào.

Các triệu chứng của mãn kinh:

Không phải vì mãn kinh là một hiện tượng tự nhiên nên không có triệu chứng, và có nhiều phụ nữ có nhiều triệu chứng tiền mãn kinh khó chịu khi cơ thể họ điều chỉnh thích nghi với nồng độ hormone mới

Các triệu chứng thường gặp nhất là cơn bốc hoả, và đổ mồ hôi không phải lúc, mà có trên 4% số phụ nữ mãn kinh mắc phải và gây phiền hà cho đa số phụ nữ. Họ có thể cảm thấy nóng quanh ngực, đầu và cổ các triệu chứng này đi kèm với tăng nhiệt độ dưới da tại chỗ có thể đo được (và đôi khi thấy đuợc) kéo dài 20-40 phút

Nhịp tim có thể tăng lên 20 lần / phút. Những triệu chứng vận mạch này có thể khởi phát ở những phụ nữ còn kinh nguyệt đều đặn và có thế kéo dài 5-10 năm sau mãn kinh (thường là 2-3 năm). Xuất độ của cơn bốc hoả thay đổi khá nhiều, từ 1 lần mỗi vài ngày đến 100 lần mỗi tuần ở một số trường hợp nặng. Các cơn bốc hoả có thể do stress, uống rượu hoặc nóng bức gây ra, nhưng đa số khó tìm đuợc nguyên nhân cụ thể.

Rối loạn tính khí cũng thường gặp, tuy khó lượng hóa hơn điển hình là lo lắng, ngủ gà, thiếu tập trung và mất ngủ. Những triệu chứng này thường gặp nhất khoảng 3 năm trước khi mãn kinh.

Tỉ lệ phụ nữ có những thay đổi tính khí đó ước tính khoảng 25 -50%. Triệu chứng trầm cảm cũng được báo cáo trong thời gian này.

Ham muốn tình dục ở phụ nữ mãn kinh thường được báo cáo là thấp, có thể liên quan đến tác động tâm lý của estrogen trên não và giảm nồg độ androgen. Có nhiều yếu tố can dự vào vào việc định đoạt mức độ ham muốn tình dục và hưởng lạc, bao gồm những thay đổi thực thể mô tả dưới đây tuy vậy, (bản thân mãn kinh không phải là một quá trình lão hoá) cũng là một yếu tố lien quan trực tiếp đến ; mất ham muốn và chức năm tình dục đã được báo cáo sau khi cắt bỏ buồng trứng

Các thay đổi khác ít được báo cáo hơn là đau khớp, hoặc đau cơ, chóng mặt và dị cảm.

Khó có thể đánh giá độ nặng của các triệu chứng này vì phần nhiều là triệu chứng chủ quan. Tuy vậy, để có thể so sánh thuốc trong thử nghiệm lâm sàng, hoặc xác định xem bệnh nhân có được hưởng lợi từ một điều trị cụ thể nào không, rõ ràng cần có một đánh giá định lượng hoặc bán định lượng.

Một trong những text thường dùng nhất l2 chỉ số Kupperman (KI. Kupperman Index), được đề xuất từ năm 1953. Chỉ số này lượng hoá 11 triệu chứng mãn kinh thường gặp và dựa vào sự đánh giá chủ quan của người phụ nữ về xuất độ và độ nặng của chúng (xem bảng đánh giá bên dưới)

Một số chỉ số khác thường dùng để đánh giá xuất độ và độ nặng các triệu chứng mãn kinh là Thang điểm mãn kinh Greene phụ nữ được hỏi để phân loại độ nặng và xuất độ của 21 triệu chứng theo thang điểm 4 bậc. Các triệu chứng được xem trọng như nhau, không như chỉ số Kupperman, Độ nặng của các nhóm triệu chứng được cộng lại để phân thành 6 mức điểm số riêng các triệu chứng được cộng lại để phân thành 6 mức điểm số riêng biệt. Có thể cho điểm các triệu chứng lo lắng, trầm cảm, và các triệu chứng thực thể, vận mạch hoặc tình dục ( có thể cộng điểm số của lo lắng và trầm cảm để hình thành điểm số triệu chứng tâm lý). Những điểm số này đôi khi được gọi là điểm A1, A2, F2, F3 và F10 (với F1 là điểm của tất cả các triệu chứng tâm lý), và là tổng số điểm các triệu chứng 1-6,7-11,12-18, 19-20 và 21 (xem bảng dưới)Các triệu chứng theo thang điểm Greene

Thay Đổi Niệu Sinh Dục

Các cơ quan niệu sin hdục như âm đạo, âm hộ, và niệu đạo xa cùng một nguồn gốc phôi học, và tất cả đều nhạy cảm với estrogen. Vì vậy, khi nồng độ estrogen bắt đầu suy giảm, những cơ cấu này sẽ thay đổi và có thể gây nên triệu chứng đó gây khó chịu và thường gặp.

Teo Âm Đạo

Thiếu estrogen làm mỏng biểu mô âm đạo vì tốc độ phân bào giảm đi; tỉ lệ các tế bào trưởng thành hơn trên bề mặt giảm. Thể tích bào tương cũng giảm. Biểu mô âm đạo trở nên khô hơn và dể tổn thương hơn. Sự phối hợp những yếu tố đó có thể gây nên một số triệu chứng bất lợi như đau hoặc ngứa tại chỗ.

Tế bào biểu mô không những thay đổi số lượng mà còn thay đổi tính chất trong điều kiện tiền mãn kinh, các tế bào nông ở âm đạo tiết ra glycogen, thúc đẩy sự tăng trưởng các trực khuẩn này là vi sinh cộng sinh và giúp bảo vệ chống nhiễm khuẩn do các tác nhân gây bệnh khác, vì chúng sản xuất acid lactid làm âm đạo có pH acid ức chế sự tăng trưởng nhiều tác nhân gây bệnh khác. Trong tình trạng mãn kinh, giảm số luợng trực khuẩn, đặc biệt là vi khuảun trong phân, còn có nguy cơ cao nhiễm khuẩn đường tiểu dưới, dẫn đến viêm bàng quang.

Triệu chứng âm đạo : 38% Nhiễm trùng niệu tái diễn: 13%

Giao hợp đau: 38% Tiểu tiện mất tự chủ: 29%

Khí hư: 15% Khi gắng sức 12%

Ngứa : 15% Tiểu gấp 8%

Hỗn hợp 9%

Tỉ lệ các triệu chứng niệu sinh dục trên 900 phụ nữ 61 tuổi (chỉ có 4% phụ nữ dùgn lị6u pháp hormon thay thế)

Có thể lượng hóa quá trình này bằng cách khảo sát tỉ lệ tương đối giữa các tế bào trên phết âm đạo. Bình thường trong phết xét nghiệm này có ba loại tế bào khác nhau: tế bào lớp cận đáy, lớp trung gian và lớp nông. Tế bào cận đáy là lớp non nhất; tế bào nông trưởng thành nhất và chỉ thị cho môi trường được estrogen chi phối. Một số đo lường dùng là chỉ số nhân tế bào chất (KPI) là tỉ lệ của các tế bào nông trên phết âm đạo. Vì số tế bào lớp nông giảm do thiếu esrtogen, hiện tượng teo âm đạo được phản ánh bằng giảm (KPI). Liệu pháp estrogen thay thế làm tế bào phân chia nhanh hơn và đảo ngược trạng thái teo âm đạo. Chỉ số KPI tăng trở lại chỉ số này được dùng để đánh giá liệu pháp hormon thay thế. Một cách khac đôi khi được dùng để lượng hoá tế bào học biểu môâm đạo là chỉ số trưởng thành (MI) hoặc trị số trưởng thành (MV). Đây là tỉ số của tế bào cận đáy/ trung gian/ nông trên 100 tế bào ở phế âm đạo.

Những thay đổi bất lợi do teo âm đạo thương gây ra giao hợp đau và giảm lạc thú tình dục. Mỏng biểu mô âm đạo và giảm chất tiết âm đạo do nồng độ estrogen thấp là những yếu tố chính trong loại triệu chứng này. Giảm nồng độ estrogen cón có thể làm cho sự nâng đở thành âm đạo yếu đi và mất mô mở ở môi lớn. Không phải lúc nào người phụ nữ cũng cảm thấy thoải mái khi báo cho bác sĩ triệu chứng này. Do đó ngoài việc giảm ham muốn, nhiều phụ nữ còn cảm thấy chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng tồi tệ vì suy giảm nồng độ estrogen.

Xương là một chất liệu trơ. Trong suốt cuộc đời, xương mới được sản xuất bởi các tạo cốt bào khi đứ với nhiều loại kích thích. Tuy vậy, mô xương cũng bị các hủy cốt bào tiêu hủy một cách hằng định, và có một sự cân bằng giữa hoạt động của hai loại tế bào này, quyết định tổng lượng xương thật sự. Trên phụ nữ sau mãn kin, có sự thiên lệch về hướng ít tác động tạo cốt bào, làm mất dần khối lượng xương theo thời gian, tuy cơ chế chính xác của sự thay đổi này phức tạp và chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Có một số bằng chứng cho rằng tốc độ chu chuyển xương nhanh tự nó cũng góp phần tạo điều kiện cho gãy xương xãy ra.

Giảm MĐX và/ hoặc thay đổi vi cấu trúc có nghĩa là có nguy cơ đáng kể bị gãy xương. Hao phí sức khỏe và tiền bạc cho gãy xương trên người lớn tuổi có thể rất lớn. Chẳng hạn tại Vương Quốc Anh, mỗi năm ước tính có khoảng 130000 trường hợp gãy đốt sống. Xuất độ hàng năm của gãy cổ xương đùi được ước tính là tên 50000 trường hợp, trong đó có một nữa số bệnh nhân này không bao giờ hồi phục hoàn toàn và 20% sẽ chết trong vòng 1 năm. Nguy cơ gãy cổ xương đùi trong đời người phụ nữ là 15% (cao gấp đôi nam giới). Vì có sự thay đổi dân số như đã dự kiến, con số này trong tương lai sẽ tăng nếu không ngăn ngừa hay điều trị mất chất xương. Vì có nhiều bệnh nhân nữ không hồi phục hoàn toàn và cần chăm sóc toàn thời gian, chi phí xã hội cũng sẽ tăng cao.

Mất chất xương xảy ra cùng với tuổi tác ở cả nam lẫn Nữ, nhưng là một vấn đề sức khỏe đặc biệt với Phụ nữ vì hai lý do: (i) phụ nữ có trị số khối lượng xương cực đại thấp hơn nam giới, vì cơ thể họ nhỏ nhằn hơn, và (ii) tốc độ mất xương của họ tăng nhanh khi mãn kinh. Vì vậy những phụ nữ sau mãn kinh gầy ốm đặc biệt dễ bị gãy xương. Tập thể dục làm tăng khối lượng xương và được đề nghị như là một biện pháp dự phòng tốt đối với phụ nữ trẻ vì những chấn động do thể dục tạo ra trên xương có thể kích thích sự tạo xương. Điều này đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ gầy ốm vốn sẽ có đỉnh MĐX thấp. Tuy nhiên, vận động quá sức có thể gây vô kinh và sự thiếu hormon sinh dục trong máu có thể phản tác dụng lại các tác dụng có lợi. Phụ nữ chưa sinh nở và uống nhiều cà phê có nguy cơ cao kết hợp với loãng xương. Phụ nữ da trắng và châu á có xuất độ loãng xương cao hơn phụ nữ da đen. Chế độ ăn uống có đầy đủ thành phần calci cũng có lợi như một biện pháp dự phòng.

Trên phụ nữ sau mãn kinh, MĐX tương quan với xuất độ gãy xương: hãy để ý tất cả những trường hợp gãy đốt sống thắt lưng trên hình 13 đều xãy ra trên phụ nữ có MĐX đốt sống thắt lưng thấp hơn trị trung bình. Lợi ích của hormon thay thế trong điều trị bệnh nhân có MĐX thấp sẽ được bàn đến trong phần sau.

Những thay đổi về tim mạch


Quan trọng tương tự đối với sức khỏe phụ nữ, nếu không nói là nhiều hơn, là những thay đổi về hình thái và các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch, đặc biệt là bệnh mạch vành (BMV). BMV là một trong những nguyên nhân tử vong lớn nhất của phụ nữ, chiếm trên 45% số tử vong. Tuy BMV hay gặp ở nam giới hơn phụ nữ trên mãn kinh, phần lớn các yếu tố nguy cơ đều tương tự nhau ở hai giới. Tuy vậy, đáng quan tâm là nguy cơ của mội yếu tố có thể khác nhau giữa hai giới; ví dụ bệnh tiểu đường có giá trị tiên đoán cho BMV ở phụ nữ tiền mãn kinh nhiuề gấp ba lần so với nam giới.

Trước mãn kinh, phụ nữ có xuất độ BMV thấp hơn một cách có ý nghĩa, nhưng xuất độ tương đối tăng đáng kể khi khởi sự mãn kinh. Vì vậy nguy cơ tử vong lien quan tới BMV ở nam giới cao gấp 5 lần so với nữ giới 55 tuổi; nhưng tỷ số này giảm dần theo tuổi, cho đến trên 85 tuổi thì xuất độ ở hai giới hầu như giống hệt nhau.

Ngoài các yếu tố nguy cơ BMV chung cho nam và nữ, estrogen còn được chứng minh là một yếu tố bảo vệ chính, và nồng độ estrogen ở mức bảo vệ đã hạ thấp nguy cơ ở phụ nữ tiền mãn kinh. Một trong những nghiên cứu tim mạch lớn nhất được thực hiện trên phụ nữ (và đang tiếp tục ) là nghiên cứu sức khỏe điều dưỡng, đã cho thấy vai trò của estrogen trong dự phòng BMV. Ví dụ, Phụ nữ tiền mãn kinh bị cắt bỏ buồng trứng ( và không còn tiết estrogen) có nguy cơ tương đối nhồi máu cơ tim cao hơn gấp đôi, trong khi những người như thế được bổ sung estrogen có cùng nguy cơ như ở nhóm tiền mãn kinh.

Các hệ cơ quan khác

Da có nhiều thay đổi sau mãn kinh, nhưng một số thay đổi này có thể liên quan với lão hóa hơn là thay đổi hormon. Nhiều phụ nữ thấy rằng da trở nên khô và dể bong vào thời kỳ này, và cũng dể bị bầm máu hơn. Có nhiều bằng chứng cho thấy những thay đổi này lệ thuộc estrogen, và liệu pháp hormon thay thế (HTT) được chứng minh là cải thiện được phẩm chất da trong một thời gian ngắn. Ví dụ, một phân tích cắt ngang gần đây được thực hiện trên 3800 phụ nữ sau mãn kinh tại Hoa Kỳ thếy rằng nhũgn người dùng estrogen ít có khả năng bị khô và nhăn da hơn một cách có ý nghĩa so với những người không dùng, ngay cả sau khi đã hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu.

Cũng có gợi ý cho rằng nồng độ estrogen có thể có lợi cho phụ nữ sau mãn kinh mắc bệnh alzeimer hoặc ngăn ngừa được sự phát triển bệnh này. Bằng chứng hiện nay còn trái ngược nhau, vì nhiều nghiên cứu trước đây không được kiểm soát tốt những yếu tố có khả năng gây nhiễu. Tuy vậy, trong một tổng quan gần đây về 10 thử nghiệm lâm sang, điều trị thay thế estrogen tỏ ra có lợi trên đáp ứng trí nhớ trogn 3 nghiên cứu. Tương tự, trên một quần thể phụ nữ sau mãn kinh cao tuổi, có 5,8% số người dùng HTT bị phát bệnh Alzeimer, so với 16,3% ở những người không dùng. Những phụ nữ có thời gian dùng HTT lâu dài ít có khả năng phát triển bệnh hơn (Tang et al. 1996).

Những thay đổi về nồng độ estrogen ở tuổi mãn kinh cần được gán cho những thay đổi có thể xãy ra ở lông tóc vào thời kỳ này tóc có thể khô hơn, ít bóng và dễ gãy. Phụ nữ cũng có thể bị khô mắt, dẫn đến kích ứng tại chổ và có thể phải cần dùng thuốc nhỏ mắt thay cho sự tiết nước mắt không đầy đủ.

TÓM TẮT

Những thay đổi mãn kinh là do nang noãn giảm số lượng và thiếu sự đáp ứng với FSH, dẫn đến tắt kinh.

Mãn kinh có thể là hậu quả của phẫu thuật vì những lý do khác.

Các thay đổi vận mạch là một trogn những triệu chứng thường gặp nhất trong thời kỳ chu mãn kinh.

Những thay đổi niệu – sinh dục có thể dẩn đến các triệu chứng âm đạo và rối loạn đường tiểu.

Mãn kinh là đi kèm với giảm mật độ xương và những thay đổi cấu trúc xương.

Xuất độ bệnh mạch vành ở phụ nữ tăng sau mãn kinh.

Theo Khoe24h
Quang Cao 580x100

Comments

0 comments to "Thế nào được gọi là mãn kinh?"

Đăng nhận xét

 

Copyright 2008 All Rights Reserved Revolution Two Church theme by Tung Shady